Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) cho thấy, trong 11 tháng năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu nông, lâm, thủy sản ước đạt 85,13 tỷ USD, so với cùng kỳ năm 2022 giảm 5,9%. Trong đó, xuất khẩu đạt mức 47,84 tỷ USD, nhập khẩu 37,29 tỷ USD. Còn giá trị xuất siêu nông, lâm, thủy sản đạt mức 10,55 tỷ USD, so với cùng kỳ năm 2022 tăng 33,7%.

Và chỉ riêng trong tháng 11/2023, xuất khẩu nông, lâm, thủy sản ước đạt 4,79 tỷ USD, so với tháng 10/2023 tăng 0,3%, so với tháng 11/2022 tăng 13%. Trong đó, tất cả các nhóm hàng đều tăng so với tháng 11/2022. Cụ thể, nông sản ghi nhận 2,49 tỷ USD, tăng 24,7%; chăn nuôi là 41 triệu USD, tăng 9,7%; lâm sản ghi nhận 1,29 tỷ USD, tăng 2,8%; thủy sản ghi nhận 800 triệu USD, tăng 1,4%; đầu vào sản xuất 168 triệu USD, tăng 4,9%.

Việt Nam còn nhiều dư địa tăng trưởng xuất khẩu viên nén gỗ
Xuất khẩu nhóm nông sản “tăng trưởng” ấn tượng trong 11 tháng năm 2023. Nguồn ảnh: Internet

Xuất khẩu nhóm nông sản “tăng trưởng” ấn tượng trong 11 tháng năm 2023

Như thế, tính chung trong 11 tháng, bởi giá trị xuất khẩu của một số mặt hàng xuất khẩu chính giảm cho nên tổng kim ngạch xuất khẩu vẫn còn giảm 2,7% so với cùng kỳ năm 2022. Và trong 11 tháng, giá trị xuất khẩu nhóm thủy sản đạt mức 8,24 tỷ USD, giảm 18,9%; lâm sản đạt mức 13,02 tỷ USD, giảm 17%. Đối với nhóm nông sản, chăn nuôi có giá trị tăng lần lượt là 17,1% và 23,5%. Cũng có đóng góp vào nhóm nông sản đó là rau quả với 5,32 tỷ USD, tăng 74,5%; gạo ghi nhận 4,41 tỷ USD, tăng 36,3%; hạt điều là 3,31 tỷ USD, tăng 17,4%.

Riêng với nhóm nông sản, chăn nuôi có giá trị tăng. Nông sản ghi nhận 24,3 tỷ USD, tăng 17,1% (đóng góp bởi giá trị xuất khẩu nhóm hàng rau quả 5,32 tỷ USD, tăng 74,5%; gạo 4,41 tỷ USD, tăng 36,3%; còn hạt điều 3,31 tỷ USD, tăng 17,4%, sản phẩm từ ngũ cốc ghi nhận 1,08 tỷ USD, tăng 5,4%); sản phẩm chăn nuôi là 453 triệu USD, tăng 23,5%. Cho đến thời điểm hiện tại, có 6 sản phẩm/nhóm sản phẩm đạt giá trị xuất khẩu trên 3 tỷ USD.

Còn giá xuất khẩu bình quân của một số nông sản chính: Gạo 568 USD/tấn, ghi nhận tăng 17,3%, chè 1.750 USD/tấn, ghi nhận tăng 8,7%, cà phê 2.570 USD/tấn, ghi nhận tăng 11,9%. Và một số mặt hàng giảm như Cao su 1.343 USD/tấn, ghi nhận giảm 14,7%; hồ tiêu 3.391 USD/tấn, ghi nhận giảm 21,3%; hạt điều 5.682 USD/tấn, ghi nhận giảm 4,7%; sắn và sản phẩm từ sắn 437 USD/tấn, ghi nhận giảm 0,3%.

Việt Nam còn nhiều dư địa tăng trưởng xuất khẩu viên nén gỗ
Nguồn ảnh: Internet

Cũng trong 11 tháng đầu năm 2023, giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đến các thị trường thuộc khu vực châu Á đạt mức 23,61 tỷ USD, tăng 6,8%; châu Mỹ đạt 10,85 tỷ USD, giảm 17,7%; châu u đạt 4,85 tỷ USD, giảm 12,5%; châu Phi đạt 999 triệu USD, tăng 21,7%; châu Đại Dương đạt 722 triệu USD, giảm 13,5%. Còn Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản tiếp tục duy trì là 3 thị trường xuất khẩu lớn. Giá trị xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc chiếm tỷ trọng 23,2%, tăng 18%; Hoa Kỳ chiếm 20,6%, giảm 17,9%; Nhật Bản chiếm 7,4%, giảm 9,1%.

Nỗ lực xử lý “rào cản” kỹ thuật ở một số thị trường lớn

Đối với nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu nông, lâm, thủy sản 11 tháng đầu năm 2023 đạt mức 37,29 tỷ USD, giảm 9,7%. Trong đó, nhóm nông sản đạt 22,72 tỷ USD, giảm 9,4%; sản phẩm chăn nuôi là 3,23 tỷ USD, giảm 4,8%; thủy sản đạt 2,41 tỷ USD, giảm 3,4%; lâm sản 2,09 tỷ USD, giảm 27,5%; còn đầu vào sản xuất 6,79 tỷ USD, giảm 8,1%; muối ghi nhận 41,1 triệu USD, giảm 2,5%.

Còn khu vực châu Á chiếm 28,1% thị phần nhập khẩu của Việt Nam, châu Mỹ chiếm 23,5%, châu Đại Dương chiếm 7%, châu Phi chiếm 4,7%, châu u chiếm 4%. Những nước Trung Quốc, Brazil và Hoa Kỳ chính là 3 thị trường cung cấp các mặt hàng nông, lâm, thủy sản lớn nhất cho Việt Nam trong trong 11 tháng qua, với thị phần trong tổng giá trị nhập khẩu lần lượt là 8,1%, 8,1% và 7,9%.

Cũng trong tháng 11, thị trường hàng hóa trong nước duy trì ổn định, nguồn cung được đảm bảo và giá cả không có biến động nhiều. Còn giá lúa, gạo ở Đồng bằng Sông Cửu Long có xu hướng tăng (lúa tăng 300 - 400 đồng/kg, gạo tăng 2000 - 3000 đồng/kg), giá lợn hơi tăng nhẹ 1000 đồng vào tuần đầu của tháng 11, sau đó có xu hướng giảm 1000 - 2000 đồng/kg do dịch bệnh ở một số tỉnh, thành. Giá cá tra nguyên liệu cũng có xu hướng giảm, duy trì ở mức 26.500 - 26.800 đồng/kg; còn giá tôm sú 220.000 đồng/kg, tăng 40.000 đồng/kg. Và thị trường trái cây đang có xu hướng giảm bởi nguồn cung tăng.

Việt Nam còn nhiều dư địa tăng trưởng xuất khẩu viên nén gỗ
Nỗ lực xử lý “rào cản” kỹ thuật ở một số thị trường lớn. Nguồn ảnh: Internet

Và trong tháng 12, Bộ NN&PTNT sẽ tiến hành đẩy mạnh phát triển thị trường tiêu thụ trong nước, xuất khẩu. Đáng chú ý là tiếp tục xử lý các vấn đề thị trường nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu nông sản, thủy sản, nhất là thị trường Trung Quốc, Hoa Kỳ, liên minh kinh tế Á - u, EU,...

Song song với đó là tận dụng các FTAs, đặc biệt là Hiệp định CPTPP, EVFTA để có thể đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông, lâm, thủy sản chủ lực, hỗ trợ cho doanh nghiệp tiến hành ký kết đơn hàng xuất khẩu mới. Song song với đó, phối hợp, hỗ trợ bảo hộ nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm xuất khẩu tiềm năng của Việt nam ở thị trường nước ngoài.

Cùng với đó là theo dõi, nắm bắt tình hình giá cả, nguồn cung các mặt hàng lương thực thực phẩm thiết yếu, báo cáo Tổ điều hành thị trường trong nước và Ban Chỉ đạo giá của Chính phủ; đảm bảo được nguồn cung phục vụ nhu cầu trong nước, cân đối cung - cầu dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn. Phối hợp với các địa phương hỗ trợ trong việc kết nối, thúc đẩy chế biến và tiêu thụ các sản phẩm nông sản vào vụ thu hoạch.