Dư địa lớn để phát triển

Theo Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số (Bộ Công Thương), thương mại điện tử Việt Nam được xem là một trong những thị trường phát triển nhanh tại Đông Nam Á khi những năm qua chứng kiến mức tăng trưởng cao và liên tục.

Thương mại điện tử năm vừa qua là một trong những điểm sáng trong phát triển kinh tế số với tốc độ tăng trưởng cao 20% và doanh thu thương mại điện tử bán lẻ (B2C) đạt 16,4 tỷ USD, chiếm 7,5% tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng. Trong năm nay, doanh thu bán lẻ thương mại điện tử sẽ đạt ước tính 20,5 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng mạnh, dự kiến là 25%.

Ngoài ra, sự phát triển này của thương mại điện tử cũng kích thích hành vi tiêu dùng người mua thay đổi từ việc mua sắm trực tiếp sang mua sắm qua những kênh thương mại điện tử. Khối lượng giao dịch thương mại điện tử gia tăng sẽ khiến nhu cầu logistics, vận tải và giao hàng tăng cao. Đây vừa cơ hội, vừa là thách thức trong những năm qua cho dịch vụ logistics trong thương mại điện tử.

Gỡ “nút thắt” để ngành logistics Việt Nam bứt tốc
Ngành logistics có dư địa lớn

Các chuyên gia cho rằng, logistics trong thương mại điện tử được xem là quy trình lưu trữ, vận chuyển hàng hóa, gồm quản lý tồn kho, đóng gói, vận chuyển các đơn hàng và thậm chí là dịch vụ sau bán hàng như xử lý, đổi trả, thu hồi hàng.

Đặc biệt, người mua có thể mua sắm không giới hạn ở khu vực địa lý, có thể đặt mua một sản phẩm hàng hóa bất kỳ trong thương mại điện tử ở vùng miền khác hay quốc gia khác qua website, thông tin đơn hàng sẽ được gửi đi và chấp nhận với tốc độ dường như ngay lập tức. Mặt khác, việc vận chuyển hàng hóa không thể tới tay người dùng ngay, mà vẫn sẽ cần vượt qua một khoảng cách nhất định về địa lý.

Điều này được triển khai bởi hệ thống logistics. Do đó, dịch vụ logistics là mắt xích không thể thiếu để hoàn thành các đơn hàng và giao dịch dù các giao dịch được thực hiện trên môi trường internet.

Ngoài ra, logistics còn giúp việc lưu thông phân phối hàng hóa được thông suốt, an toàn và chuẩn xác, đưa hàng hóa tới thị trường một cách kịp thời và nhanh chóng. Người tiêu dùng sẽ mua được hàng hóa một cách linh hoạt, thuận tiện, giúp thỏa mãn nhu cầu của mình.

Chưa hết, ở môi trường thương mại điện tử, khi doanh nghiệp và khách hàng giao tiếp với nhau qua internet, việc tạo dựng niềm tin và uy tín là rất khó khăn. Bởi vậy, logistics thương mại điện tử sẽ hỗ trợ khả quan cho các hoạt động của doanh nghiệp với mục tiêu cơ bản là giao đúng sản phẩm với đúng số lượng ở đúng địa điểm và sắp tới là đúng khách hàng, giúp đạt được mục đích cuối cùng là tạo lợi thế về cạnh tranh và uy tín cho doanh nghiệp.

Còn nhiều thách thức

Hiện Việt Nam đứng thứ 64/160 quốc gia về mức độ phát triển logistics và đứng thứ 4 ở khu vực Asean sau Singapore, Malaysia và Thái Lan, theo xếp hạng của ngân hàng thế giới.

Agility đánh giá, Việt Nam xếp thứ 11 trong nhóm 50 thị trường logistics mới nổi toàn cầu năm 2022. Ngành logistics Việt Nam có tốc độ phát triển hàng năm đạt từ 14-16%, quy mô 40-42 tỷ USD/năm.

Doanh nghiệp trong lĩnh vực này tại Việt Nam cũng tăng nhanh về số lượng. Hiện đã có khoảng trên 3.000 đơn vị vận tải và logistics trong nước và 25 tập đoàn giao nhận hàng đầu thế giới hoạt động cung cấp dịch vụ logistics từ làm thủ tục vận chuyển hàng hóa đến khâu đóng thuế hay thanh toán…

Gỡ “nút thắt” để ngành logistics Việt Nam bứt tốc
Lĩnh vực logistics còn đối mặt với nhiều thách thức

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông cho biết tại Hội nghị Logistics 2023 với chủ đề "Logistics Việt Nam - Con đường phía trước" do Báo Đầu tư và Công ty SLP Vietnam tổ chức đầu tháng 10 vừa qua, thực tế vẫn còn tồn tại những thách thức và hạn chế dù lĩnh vực logistics của Việt Nam có tốc độ phát triển nhanh và đạt các kết quả tích cực.

Chẳng hạn như chính sách, thể chế với lĩnh vực logistics chưa đồng bộ. Về khuôn khổ pháp lý với ngành logistics, đã có nhiều văn bản được ban hành, tuy nhiên chính sách chi tiết và cụ thể hóa vẫn chưa được triển khai, hoặc thậm chí đang còn chồng chéo.

Nhu cầu trung chuyển chất lượng cao cho hàng hóa giữa các phương thức đang ngày càng lớn, thế nhưng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải và logistics còn hạn chế, không đồng bộ, chưa đem lại hành lang vận tải đa phương thức, còn nhu cầu trung chuyển chất lượng cao cho hàng hóa giữa các phương thức ngày càng lớn. Việt Nam cũng còn thiếu những khu kho vận tập trung có vị trí chiến lược, đồng bộ với hệ thống cảng, sân bay, cơ sở sản xuất, đường quốc lộ.

Về mặt quy mô hoạt động, nhân lực, vốn, hoạt động của các doanh nghiệp logistics còn hạn chế, manh mún, thiếu chuyên nghiệp và kinh nghiệm…

Và sau cùng là nhân lực phục vụ cho dịch vụ logistics qua đào tạo bài bản còn yếu và thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu.

Những điều này đang đặt ra thách thức lớn đối với việc phát triển ngành logistics Việt Nam trong tương lai. Và hiện nay, vấn đề đặt ra là làm thế nào để tận dụng được cơ hội giúp logistics có thể phát triển trở thành một ngành kinh tế quan trọng, không chỉ đáp ứng được nhu cầu trong nước mà còn đủ sức cạnh tranh quốc tế, bắt kịp được xu hướng phát triển chung của toàn cầu là logistics xanh, nhằm đến mục tiêu phát triển dài hạn, bền vững

Yếu tố cơ sở hạ tầng

Ngành logistics Việt Nam được đánh giá là có tiềm năng, thế nhưng, các diễn giả tại Hội nghị cho rằng cần phải khắc phục những hạn chế chủ quan và những trở lực khách quan để ngành logistics có thể phát triển đúng như mong muốn.

Theo Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) Trần Thanh Hải, hiện nay có một xu hướng rất rõ trong ngành logistics là đầu tư vào công nghệ và chuyển đổi số trong doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics. Các doanh nghiệp trong ngành cần nhận thấy xu hướng rõ ràng của ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, những thành tựu khoa học công nghệ trong việc quản lý vận tải, quản lý đơn hàng, quản lý cảng biển.

Xu hướng khác là xanh hóa chuỗi cung ứng. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp phải đáp ứng tiêu chí về giảm phát thải, thân thiện với môi trường, và đáp ứng được yêu cầu của hoạt động thương mại trong thời gian tới và toàn bộ các thành phần tham gia chuỗi cung ứng logistics đều phải đáp ứng yêu cầu xanh hóa, bao bì xanh, vận tải xanh, kho bãi xanh và quản lý dữ liệu logistics xanh.

Gỡ “nút thắt” để ngành logistics Việt Nam bứt tốc
Cơ sở hạ tầng là yếu tố rất quan trọng để ngành logistics phát triển

Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông cho biết Việt Nam được đánh giá là có nhiều lợi thế và tiềm năng, cơ hội để kích thích ngành dịch vụ logistics phát triển. Dù những năm qua có ảnh hưởng của đại dịch Covid 19 cùng biến động của chính trị toàn cầu khiến kinh tế Việt Nam chịu tác động nặng nề, tuy nhiên xu thế đang dần tích cực hơn.

Chính phủ hiện nay đang nỗ lực triển khai nhiều giải pháp, nhất là hoàn thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, tháo gỡ khó khăn, kích cầu tiêu dùng cho sản xuất kinh doanh và xuất khẩu. Ngoài ra, tập trung đẩy mạnh những động lực tăng trưởng mới như kinh tế số, kinh tế xanh… để đạt mức tăng trưởng cao nhất mà kế hoạch năm 2023 đề ra.

Cơ sở hạ tầng là yếu tố rất quan trọng để ngành logistics phát triển. Nhiều dự án hạ tầng trọng điểm, các tuyến đường cao tốc quan trọng, kết nối vùng miền đã được xây dựng và hoàn thiện trong suốt 2 năm qua. Việt Nam hướng tới mục tiêu hoàn thành 3.000 km đường cao tốc vào năm 2025, hoàn thành 5.000 km đường cao tốc vào năm 2030. Bên cạnh đó, là những tuyến đường ven biển, cảng biển, sân bay.

Đó là những điều kiện để Việt Nam có thể phát triển ngành logistics trong tương lai. Thế nhưng, vẫn còn nhiều việc phải làm để đạt được mục tiêu cắt giảm chi phí logistics, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành logistics trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0.

Thứ nhất, cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật và chính sách về dịch vụ logistics. Thực hiện sửa đổi, ban hành mới các chính sách, pháp luật điều chỉnh dịch vụ logistics, vận tải đa phương thức, vận tải xuyên biên giới, bao quát một cách toàn diện các dịch vụ logistics, và nội luật hóa các cam kết quốc tế về logistics…

Gỡ “nút thắt” để ngành logistics Việt Nam bứt tốc
Vẫn còn nhiều việc phải làm để đạt được mục tiêu cắt giảm chi phí logistics

Thứ hai, Nhà nước cần hoàn thiện kết cấu hạ tầng logistics, thực hiện kiểm tra các kế hoạch, quy hoạch, đảm bảo hạ tầng giao thông và dịch vụ vận tải đồng bộ với mục tiêu phát triển ngành dịch vụ logistics. Thu hút đầu tư các trung tâm logistics quy mô lớn, tập trung, theo vừng giúp bảo quản và lưu trữ hàng hóa trong thời gian dài, qua đó phát luồng phân phối tới các nơi khác.

Thứ ba, cần có sự tham gia và cam kết tích cực của các bên liên quan, gồm Chính phủ, chính quyền địa phương, các công ty logistics và trường dạy nghề để xây dựng nguồn nhân lực trong lĩnh vực logistics tại Việt Nam.

Đáng chú ý, Nhà nước cần xây dựng những bộ tiêu chuẩn nghề đối với lĩnh vực logistics, hỗ trợ các trường đầu tư về trang thiết bị, cơ sở vật chất thuộc lĩnh vực logistics để xác định nhu cầu lao động và tuyển dụng chính xác.

Thứ tư, doanh nghiệp logistics cần xây dựng chiến lược kinh doanh thực hiện liên kết chiến lược, liên doanh với các đối tác hay hoạt động mua bán sáp nhập doanh nghiệp nhằm tạo ra các doanh nghiệp mạnh, tăng sức cạnh tranh.

Theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông, ngành logistics Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ hơn nữa nếu những giải pháp trên được triển khai đồng bộ, hiệu quả.