Trong đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, kể cả dầu thô đạt 190,81 tỷ USD, giảm 9,1%, chiếm 73,5% còn khu vực kinh tế trong nước đạt 68,86 tỷ USD, giảm 5,7%, chiếm 26,5% tổng kim ngạch.
Có 31 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD trong 9 tháng qua, chiếm 92,2% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó có 6 mặt hàng đạt trên 10 tỷ USD.
Báo cáo của Bộ Công Thương cho biết: “Xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến chiếm 84,8% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, ước đạt 220,28 tỷ USD, giảm 9,6% so với cùng kỳ. Các mặt hàng xuất khẩu giảm chủ yếu như: máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện ước đạt 41,19 tỷ USD, giảm 1,7%; điện thoại các loại và linh kiện đạt 39 tỷ USD, giảm 13,4%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác đạt 30,6 tỷ USD, giảm 10,6%; hàng dệt may đạt 25,5 tỷ USD, giảm 12,1%; giày dép đạt 14,86 tỷ USD, giảm 18,2%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 9,68 tỷ USD, giảm 21,3%... ”.
![]() |
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 9 tháng đầu năm ước đạt 259,67 tỷ USD, giảm 8,2% so với cùng kỳ |
Mặt khác, các sản phẩm của nông nghiệp đã đóng góp đáng kể cho xuất khẩu, nhất là nông sản như hạt điều, gạo, rau quả, cà phê… Kim ngạch xuất khẩu của nhóm nông, thủy sản trong 9 tháng tăng 3,1%, ước đạt 23,87 tỷ USD, chiếm 9,2% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Xuất khẩu gạo đạt kim ngạch xuất khẩu 3,66 tỷ USD, tăng 40,4% so với cùng kỳ; xuất khẩu rau quả đạt 4,2 tỷ USD, tăng 71,8% so với cùng kỳ năm 2022 và vượt kim ngạch xuất khẩu của cả năm ngoái; xuất khẩu điều ước đạt 2,6 tỷ USD, tăng 14,3%, cà phê đạt hơn 3,1 tỷ USD, tăng 1,9% so với cùng kỳ.
Bộ Công thương nhận định, các ngành hàng 9 tháng qua đều gặp khó về thị trường xuất khẩu do tổng cầu thế giới giảm, đặc biệt là với hàng hóa tiêu dùng không thiết yếu.
Do đó, 9 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu sang đa số các thị trường chủ lực đều giảm, trong đó thị trường châu Á giảm 3,6%, thị trường EU giảm 6,8%, thị trường châu Phi giảm 1,2%, thị trường châu Mỹ giảm 15,8%, châu Đại Dương giảm 3,9%.
Xuất khẩu nhóm hàng nhiên liệu và khoán sản chỉ chiếm 1,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, ước đạt 3,05 tỷ USD, giảm 16% so với cùng kỳ.
Bộ Công Thương cho biết: “Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 70,9 tỷ USD, giảm 16,8% so với cùng kỳ năm 2022. Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của nước ta với kim ngạch ước đạt 42,2 tỷ USD, tăng 2,1%. Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường lớn khác cũng giảm như: thị trường EU giảm 8,2%; thị trường ASEAN giảm 5,5%, Hàn Quốc giảm 5,1%, Nhật Bản giảm 3%”.
Theo Bộ Công thương, sự sụt giảm chi tiêu mua sắm với hàng xa xỉ và thông thường của các thị trường xuất khẩu chủ lực khiến khối lượng đơn hàng giảm là lý do khiến sản xuất công nghiệp và hoạt động xuất nhập khẩu trong 9 tháng qua giảm theo.
Mặt khác, phần lớn các ngành sản xuất công nghiệp trong nước nhắm vào xuất khẩu, phụ thuộc lớn vào thị trường toàn cầu vì sản lượng sản xuất trong nước vượt xa nhu cầu nội địa, nhất là với ngành hàng dệt may, điện tử, da giày… chỉ cung ứng cho nhu cầu trong nước 10% sản lượng, 90% sản lượng còn lại là xuất khẩu.
Bên cạnh đó, trong 9 tháng năm nay, giá hàng hóa xuất khẩu có xu hướng giảm, trong đó một số hàng nông sản giảm mạnh 2 con số so với cùng kỳ như cao su giảm 18,7%, hạt tiêu giảm 25,1%, dầu thô giảm 15,8%, chất dẻo giảm 23,4, sắt thép giảm 23,8% hay phân bón giảm 35,4%.
Hơn nữa, áp lực cạnh tranh với hàng xuất khẩu cùng chủng loại của Việt Nam cũng tăng lên do Trung Quốc mở cửa trở lại. Mặt khác, các doanh nghiệp Việt vẫn còn gặp khó vì đơn hàng giảm, trong khi nhu cầu nội địa không lớn, khó tiếp cận tín dụng, chi phí đầu vào vẫn cao…